|
|
Gửi ngày 26 tháng 2 năm 2022 lúc 2:33 pm | |
Các nhà tâm lý học tin rằng, phản ứng của con người đối với môi trường, những kích thích từ môi trường chính là cái tạo nên hành vi của mỗi chúng ta. Và chính hành vi cũng có thể học tập được một cách có hệ thống và được quan sát rõ ràng từ bên ngoài mà không cần phải đi sâu vào phân tích diễn biến tâm lý.
Về cơ bản, chúng ta chỉ thường xem xét những hành vi quan sát được. Còn những thứ như nhận thức, cảm xúc và tâm trạng đều khó được xem xét hơn.
Những nhà tâm lý học hành vi thuần túy tin rằng, bất kỳ ai cũng có khả năng, có thể được đào tạo để thực hiện một công việc nào đó. Dù người đó có nền tảng di truyền, đặc trưng tính cách và những suy nghĩ nội tâm khác biệt như thế nào đi chăng nữa.
Tất nhiên, điều này cần được xem xét trong điều kiện thể chất tối thiểu. Yêu cầu duy nhất để làm được điều đó chính là đưa ra một điều kiện phù hợp với hoàn cảnh cũng như mong muốn cá nhân.
Hiện tại, có 2 điều kiện hóa được xem xét và đánh giá trong thuyết hành vi. Hãy cùng với Thanh Bình PSY tìm hiểu kỹ lưỡng về chúng nhé!
Đây là một kỹ thuật thường được các nhà khoa học áp dụng trong huấn luyện hành vi. Khi đó, một kích thích trung tính sẽ được thực hiện kết hợp với các kích thích tự nhiên xuất hiện trước đó một cách khéo léo.
Kết quả cuối cùng là kích thích trung tính sẽ đưa đến phản ứng tương tự như cách kích thích tự nhiên làm được ở thời điểm trước đó. Thậm chí, sau đó kích thích trung tính có thể dẫn đến phản ứng ngay cả khi không có kích thích tự nhiên.
Kích thích kết hợp này hiện nay thường được gọi là kích thích có điều kiện. Và hành vi có được được biết đến với tên là phản ứng có điều kiện ở con người.
Đôi khi, nó còn được gọi là điều kiện hóa phương tiện. Đây là một hình thức học tập hành vi đặc biệt có được thông qua những tác nhân củng cố, trừng phạt khác nhau.
Với điều kiện hóa từ kết quả, một liên kết được hình thành giữa hành vi và kết quả của hành vi đó. Một khi kết quả tích cực có được sau khi thực hiện một hành động, những hành động đó sẽ có khả năng lặp lại rất cao trong tương lai.
Ngược lại, những phản ứng theo sau bởi kết quả tiêu cực sẽ có ít khả năng xuất hiện, lặp lại hơn. Điều này là tất yếu khi chủ thế có thể nhận định được kết quả hành vi mà mình thực hiện.
Dựa trên những quan điểm cơ bản, ngành nghiên cứu này đã được phát triển rất tốt. Sau này, các nhà nghiên cứu có xu hướng duy vật trong tâm lý học đã đi theo con đường này.
Những nhà tâm lý học kiệt xuất theo đuổi thuyết hành vi có thể kể tới J Watson, E.Tolman, E. L. Toocdai, B. Ph. Skinnơ… Đây là những người tiếp cận hành vi phủ nhận việc nghiên cứu về ý thức của con người.
Năm 1913, tập san Tâm lý học của Mỹ đã in bài báo: Tâm lý học dưới con mắt nhà hành vi. Sự kiện này được xem là một bước đi trọng đại, là cột mốc hình thành và đặt nền tảng phát triển cho tâm lý học hành vi sau này.
Các nhà tâm lý sau đã tiếp nhận thuyết hành vi và phân hóa chúng theo những trường phái khác nhau. Cuối cùng hình thành 3 nhánh như sau:
Sự khác nhau của những nhánh này tập trung vào kết quả học tập, nhân tố phát động hành vi và phương pháp ứng xử. Từ đó, đưa ra những kết luận khác nhau cho những nhành nghiên cứu của mình.
Các nhà tâm lý học tin rằng, phản ứng của con người đối với những kích thích có từ môi trường chính là cái tạo nên hành vi của chủ thể. Về cơ bản, chúng ta chỉ xét đến những hành vi có thể quan sát được mà thôi.
Một trong những ưu điểm nổi bật của ngành này chính là có khả năng quan sát và đo lường hành vi của con người một cách rõ ràng. Trong giai đoạn đầu hình thành, tâm lý học hành vi đã thực sự mở ra một thời kỳ mới.
Nó đã cứu thoát ngành tâm lý học cuối thế kỷ 19, đầu
thế kỷ 20
. Có thể nói sự ra đời của thuyết hành vi đã đưa ngành tâm lý học ra khỏi thời kỳ khủng hoảng tưởng chừng không lối thoát.
Lần đầu tiên trong lịch sử ngành tâm lý, thuyết hành vi đã đưa hành vi của con người cùng với đời sống, xã hội trở thành đối tượng nghiên cứu. Từ đó, kiên quyết chống lại những trường phái tâm lý học duy tâm trước đó. Nhờ vậy, mọi người có thể xây dựng nên một lý thuyết tâm lý học khách quan hoàn toàn mới.
Đặc biệt, chủ nghĩa hành vi đã được nghiên cứu và áp dụng thành công khi kết hợp với nhiều trường phái khác. Nó đóng góp rất nhiều cho việc giáo dục, đào tạo con người. Ngành này đã đưa ra những luận điểm giá trị, mang nhiều ý nghĩa trong việc xây dựng ngành tâm lý học xã hội và nghiên cứu hành vi con người.
Thuyết hành vi đã đồng hóa hành vi của người và động vật. Phương pháp, cách thức tiếp cận ở đây chính là quan sát và sử dụng những kết quả quan sát được làm dữ liệu duy nhất. Ngành này cũng vứt bỏ ý thức ra ngoài phạm vi tâm lý và tách biệt nó một cách rạch ròi ra khỏi những hành vi của con người.
Tâm lý học hành vi cũng coi con người như một cơ thể phản ứng. Đó chỉ đơn thuần như một cái máy liên hợp vật lý mà thôi. Mọi ranh giới có tính nguyên tắc giữa hành vi của con người, động vật đều đã bị xóa bỏ. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến thuyết hành vi bị tan rã sau này.
Có thể nói, phương pháp luận của thuyết hành vi không lưu ý các nhà nghiên cứu xem xét tới mặt đạo đức hay luân lý. Nó chỉ đơn thuần là đánh giá con người có thích hợp với việc này hay việc kia hay không. Từ đó, biến con người trở thành một người thực hiện công việc thay vì người chủ.
Ngành nghiên cứu này mang tới nhiều lợi ích cho cuộc sống hiện đại. Thông qua nghiên cứu hành vi, mọi người có thể đánh giá được suy nghĩ, tâm lý của nhân vật, chủ thể.
Ứng dụng rõ ràng nhất có thể thấy trong ngành giáo dục, hình sự. Nó giúp nhận định tâm lý chủ thể, đưa ra những phương pháp cần thiết để thay đổi tâm lý hay đánh giá/ thay đổi các hành vi.
Sự phát triển mạnh mẽ các ngành nghề liên quan đến tâm lý đã ra đời sau này. Từ đó, giúp ứng dụng của nó được nhân rộng, mang tới nhiều điều tích cực cho cuộc sống.
Tại nước ta, ngành tâm lý học hành vi cũng đang dần được ứng dụng rộng rãi. Các dịch vụ liên quan như đánh giá sàng lọc tâm lý, tham vấn tâm lý hành vi của những bạn trẻ trong lứa tuổi đang phát triển. Từ đó, giúp các em có được hướng đi đúng đắn và tránh những sai lầm trong cuộc đời mình.
Có thể thấy, một trong những thế mạnh đáng gờm nhất của tâm lý học hành vi chính là khả năng quan sát và đo lường hành vi của con người một cách thật rõ ràng. Tuy nhiên, hạn chế của nó chính là không thể phân tích, nhận định rõ ràng những tác động sinh lý và nhận thức bên trong có ảnh hưởng nhất định đến hành vi của chủ thể.
Ở thời điểm hiện tại, thuyết hành vi không còn giữ được vị trí thống trị như trước đây. Nhưng nó vẫn là một trong những thuyết có tác động lớn, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về hành vi cũng như mối liên quan tới tâm lý của con người.
Bản thân quá trình điều kiện hóa đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những loại hành vi khác nhau. Từ đó, nắm được cách con người học tập, phát triển một cách toàn diện nhất. |
|
Quay về Kiến thức cơ bản | |
Các bài mới:
| |